TÀI LIỆU CƠ BẢN VỀ TRUNG QUỐC
I. Các vấn đề chung
- Tên nước: Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (The People's Republic of China)
- Quốc khánh: 01/10/1949
- Thủ đô: Bắc Kinh
- Vị trí địa lý: Trung Quốc nằm ở phần nửa phía Bắc của Đông bán cầu, phía Đông Nam đại lục Á - Âu, phía Đông và giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương; có biên giới chung với Nga, Mông Cổ (phía Bắc), với Kazakhstan, Kirgistan, Tagikistan (phía Tây), với Afganistan, Pakistan, Ấn Độ, Nepal, Butan (phía Tây Nam), với Myanmar, Lào, Việt Nam (phía Nam), với Triều Tiên (phía Đông).
- Diện tích: 9,6 triệu km2
- Dân số: 1,36 tỷ người (tính đến cuối năm 2013)
- Dân tộc: Trung Quốc là một quốc gia có nhiều dân tộc. Dân tộc Hán là chủ yếu, ngoài ra còn có 55 dân tộc thiểu số khác (chiếm 6% dân số cả nước và phân bổ trên 50-60% diện tích toàn quốc).
- Hành chính: Gồm 31 tỉnh, thành phố, trong đó có 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc Trung ương. 4 cấp hành chính gồm tỉnh, thành phố thuộc tỉnh (địa khu), huyện, xã.
- Tôn giáo: Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa giáo.
- Ngôn ngữ: Tiếng Hán phổ thông lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn.
II. Thể chế chính trị
- Thể chế nhà nước: Theo hiến pháp Trung Quốc, nước CHND Trung Hoa là nước Xã hội chủ nghĩa của nền chuyên chính nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy liên minh công nông làm nền tảng. Chế độ Xã hội chủ nghĩa là chế độ cơ bản của Trung Quốc. Chuyên chính nhân dân là thể chế của nhà nước. Cơ cấu Nhà nước bao gồm: Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội), Chủ tịch nước, Quốc Vụ viện (Chính phủ), Uỷ ban Quân sự Trung ương, Toà án Nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Đại hội Đại biểu Nhân dân, Chính phủ và toà án các cấp ở địa phương.
- Đảng cầm quyền: Đảng Cộng sản Trung Quốc thành lập ngày 01/7/1921, tính đến cuối năm 2012 Trung Quốc có hơn 85 triệu Đảng viên. Bộ Chính trị có 25 người, trong đó có 9 Ủy viên thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đảng có 6 người.
Ngoài Đảng Cộng sản, Trung Quốc còn có 8 đảng phái khác, đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong khuôn khổ "hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản", bao gồm: Hội Cách mạng dân chủ, Liên minh dân chủ, Hội Kiến quốc dân chủ, Hội Xúc tiến dân chủ, Đảng Dân chủ công nông, Đảng Chí công, Cửu tam học xã và Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan.
Hội nghị Chính trị Hiệp thương Trung Quốc là tổ chức chính trị - xã hội rất quan trọng của trung Quốc, có chức năng, vai trò tương tự như Mặt trận Tổ quốc của ta.
- Lãnh đạo chủ chốt:
+ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương ĐCS Trung Quốc, Chủ tịch Uỷ ban Quân sự Trung ương Nhà nước Trung Quốc: Tập Cận Bình
+ Thủ tướng Quốc Vụ viện nước CHND Trung Hoa: Lý Khắc Cường
+ Uỷ viên trưởng Uỷ ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc nước CHND Trung Hoa (Chủ tịch Quốc Hội): Trương Đức Giang
+ Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân toàn quốc nước CHND Trung Hoa (Chủ tịch Chính hiệp): Du Chính Thanh
+ Bộ trưởng Ngoại giao nước CHND Trung Hoa: Vương Nghị
III. Tình hình kinh tế - xã hội
1. Mục tiêu chiến lược và các bước phát triển của Trung Quốc
- Đại hội 15 Đảng Cộng sản Trung Quốc (9/1997) đưa ra cương lĩnh xây dựng phát triển kinh tế Trung Quốc đầu thế kỷ 21 với 3 bước lớn: (i) Đến năm 2010, tăng gấp đôi GDP so với năm 2000, nâng cao đời sống nhân dân từ mức khá giả lên giàu có; (ii) Đến năm 2020, kinh tế quốc dân phát triển hơn và các chế độ hoàn thiện hơn; (iii) Đến năm 2049, cơ bản hoàn thành hiện đại hoá, TQ trở thành nước XHCN giầu mạnh, dân chủ, văn minh.
- Đại hội 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc (11/2002) nêu rõ mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 là xây dựng toàn diện xã hội khá giả với các tiêu chí: GDP năm 2020 tăng 4 lần so với năm 2000; dân chủ và pháp chế XHCN hoàn thiện hơn; tố chất đạo đức, tư tưởng, khoa học, văn hoá, sức khỏe của người dân được nâng cao rõ rệt; năng lực phát triển bền vững được tăng cường. Hội nghị Trung ương 5 khóa 16 (10/2005) và Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 10 (3/2006) thông qua “Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 11” (2006 – 2010), nêu mục tiêu của giai đoạn 2006 - 2010 là duy trì tốc độ tăng GDP khoảng 7,5%/năm; giảm tiêu hao năng lượng/GDP khoảng 20%; giảm chất thải ô nhiễm 10%.
- Đại hội 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc (10/2007) đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với sự phát triển của Trung Quốc, theo "Quan điểm phát triển khoa học", thay đổi phương thức phát triển, với phương châm “vừa tốt vừa nhanh”, cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả, giảm tiêu hao năng lượng, bảo vệ môi trường, thực hiện mục tiêu GDP bình quân đầu người đến năm 2020 tăng gấp 4 lần so với năm 2000; đề ra 8 phương hướng, nhiệm vụ chính của chiến lược phát triển: (1) Nâng cao năng lực tự chủ sáng tạo, xây dựng quốc gia theo mô hình sáng tạo; (2) Đẩy mạnh thay đổi phương thức phát triển kinh tế, thúc đẩy cải thiện và nâng cấp cơ cấu ngành nghề; (3) Quy hoạch tổng thể sự phát triển giữa thành thị và nông thôn; (4) Tăng cường tiết kiệm tài nguyên năng lượng và bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững; (5) Thúc đẩy phát triển hài hòa giữa các khu vực, cải thiện việc khai thác sử dụng đất đai; (6) Hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, kiện toàn hệ thống thị trường hiện đại; (7) Đi sâu cải cách thể chế tài chính, thuế, tiền tệ, hoàn thiện hệ thống điều tiết vĩ mô; (8) Mở rộng và đi sâu mở cửa đối ngoại, nâng cao trình độ kinh tế theo mô hình mở cửa.
- Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (10/2012) đưa ra mục tiêu “đến năm 2020 tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) và bình quân thu nhập cư dân thành thị, cư dân nông thôn tăng gấp đôi so với năm 2010”; đề ra 5 yêu cầu mới mà Trung Quốc cần thực hiện: (i) Kinh tế phát triển bền vững lành mạnh, chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế có tiến bộ lớn; (ii) Không ngừng mở rộng dân chủ nhân dân; (iii) Tăng cường rõ rệt sức mạnh mềm văn hóa; (iv) Nâng cao toàn diện mức sống nhân dân; (v) Xây dựng xã hội tiết kiệm tài nguyên, thân thiện với môi trường đạt được tiến triển lớn.
2. Một số tình hình chính
Sau hơn 30 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội: GDP tăng trưởng bình quân hàng năm 9,8%, tuy nhiên từ năm 2012 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc chậm lại (năm 2012 tăng 7,7%, năm 2013 tăng 7,7%, là mức tăng thấp nhất trong vòng 14 năm gần đây). Năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, tổng GDP năm 2013 đạt khoảng 9.300 tỷ USD. Kim ngạch XNK năm 2013 đạt 4.160 tỷ USD, tăng 7,6%, lần đầu tiên vượt Mỹ, đứng đầu thế giới; duy trì mức kỷ lục về dự trữ ngoại tệ với 3950 tỷ USD (cuối tháng 3/2014). Trung Quốc lần lượt vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, vượt Mỹ trở thành thị trường ô tô lớn nhất thế giới, vượt Iran trở thành nước sản xuất dầu mỏ thứ 4 trên thế giới (02/2010). Năm 2010, Trung Quốc vượt Mỹ trở thành nhà chế tạo lớn nhất thế giới.
Về khoa học và công nghệ: Nền khoa học kỹ thuật của Trung Quốc đang có sự đầu tư lớn và phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ở các ngành mũi nhọn và công nghệ mới như vũ trụ, công nghệ thông tin, vật liệu mới, hải dương học… Năm 2012, Trung Quốc đã thử nghiệm thành công tàu lặn chở người “Giao Long” ở độ sâu trên 7000m; năm 2013, phóng thành công tàu “Thần Châu 10”, chính thức thực hiện ứng dụng đưa người vào vũ trụ và tàu “Thường Nga 3” đưa thiết bị lên thám hiểm mặt trăng; hệ thống siêu máy tính “Thiên Hà 2” do Trung Quốc chế tạo đã đoạt ngôi vị siêu máy tính mạnh nhất thế giới với tốc độ xử lý đạt 54,9 triệu tỷ phép tính mỗi giây (17/6/2013).
IV. Về quan hệ đối ngoại
Trung Quốc khẳng định kiên trì đi theo con đường phát triển hòa bình. Với thế và lực không ngừng gia tăng, Trung Quốc nêu cao ngọn cờ “xây dựng thế giới hài hoà, Châu Á hài hoà”, tích cực tham gia vào các vấn đề quốc tế như biến đối khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, giảm đói nghèo, các điểm nóng khu vực, phát huy vai trò nước lớn “có trách nhiệm”.
Trung Quốc không ngừng khẳng định vai trò trong nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc nâng cao vị thế quốc tế, khẳng định ảnh hưởng quan trọng tại khu vực; tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các nước lớn đặc biệt là với Mỹ, thúc đẩy ngoại giao với các nước láng giềng, gia tăng ảnh hưởng tại khu vực Mỹ la tinh và Châu Phi; đẩy mạnh thực hiện chiến lược biển. Đồng thời Trung Quốc những năm gần đây cũng tăng cường sức mạnh mềm để góp phần nâng cao sức mạnh quốc gia và ảnh hưởng ra thế giới bên ngoài.
Hiện ASEAN là đối tác thương mại thứ 3 (sau Mỹ và EU) của Trung Quốc, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Năm 2013, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 443,6 tỷ USD, tăng 10,9%; Đầu tư song phương đạt 100 tỷ USD, trong đó Trung Quốc đầu tư vào ASEAN gần 24 tỷ USD, ASEAN đầu tư vào Trung Quốc 76,1 tỷ USD. Trung Quốc và ASEAN đã thiết lập Khu mậu dịch tự do, đi vào hoạt động từ năm 2010.
QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh chóng và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
I. Quan hệ chính trị
Về quan hệ chính trị, giao lưu và tiếp xúc cấp cao diễn ra thường xuyên với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, là động lực quan trọng nhằm tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác thiết thực, tạo điều kiện để hai bên từng bước giải quyết ổn thỏa tranh chấp, bất đồng. Hai nước đã ký nhiều hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài giữa hai nước. Trao đổi đoàn ở trung ương và địa phương ngày càng tăng với số lượng trên 200 đoàn, góp phần tăng cường hiểu biết và mở rộng hợp tác giữa hai nước. Hai bên cũng đã tổ chức thành công Phiên họp lần thứ 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung với những kết quả cụ thể1. Hai bên cũng đã ký kết Chương trình hành động giữa Chính phủ hai nước về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc2 .
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng, đã tổ chức 9 cuộc hội thảo về lý luận giữa hai Đảng. Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng được đẩy mạnh, hai bên tiếp tục triển khai hiệu quả các thỏa thuận văn bản hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao (ký tháng 12/2002), hai Bộ Công an (ký tháng 9/2003), hai Bộ Quốc phòng (ký tháng 10/2003); hai ngành An ninh (ký tháng 3/2005); Thoả thuận hợp tác biên phòng (ký tháng 8/2007); Thỏa thuận về hợp tác giữa hai Tổng Cục chính trị Bộ Quốc phòng hai nước (ký tháng 12/2007); Hiệp định về tăng cường hợp tác phòng chống buôn bán người (ký năm 2010).
Quan hệ giữa các địa phương được tăng cường với nhiều hình thức và thiết thực. Hai bên đã tiến hành họp 06 phiên họp Ủy ban công tác liên hợp giữa 04 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc) và 04 phiên họp Nhóm công tác liên hợp giữa 04 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc); tiến hành họp 04 kỳ Hội nghị kiểm điểm tình hình hợp tác giữa các Bộ/ngành, địa phương Việt Nam với tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, 6 kỳ họp Hội nghị hợp tác hành lang kinh tế 5 tỉnh, thành phố Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Giao lưu nhân dân và thế hệ trẻ hai nước được tăng cường. Hai bên đã tổ chức Liên hoan Thanh niên Việt Nam - Trung Quốc tại Quảng Tây (8/2010), Liên hoan hữu nghị nhân dân biên giới Việt - Trung (11/2010), 2 lần Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam - Trung Quốc lần thứ nhất (12/2010, 11/2013), 5 lần Diễn đàn nhân dân Việt - Trung, 14 lần Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung.
II. Quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư
Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương năm 2013 đạt 50,21 tỷ USD (trong khi thống kê của Trung Quốc là 65,4 tỷ USD3), trong đó Việt Nam xuất 13,26 tỷ USD, nhập 36,95 tỷ USD (lần lượt tăng 21,93%, 7,01% và 28,35% so với cùng kỳ 2012). Tuy nhiên, nhập siêu từ Trung Quốc tiếp tục tăng, lên đến 23,69 tỷ USD (tăng 44,45 % so với cùng kỳ). Kim ngạch thương mại song phương 4 tháng đầu năm 2014 đạt 17,44 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất 4,99 tỷ USD, nhập 12,45 tỷ USD (lần lượt tăng 21,87%, 28,6% và 19,37% so với cùng kỳ 2013).
Quan hệ hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, tính lũy kế đến hết tháng 4/2014, Trung Quốc có 1019 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đăng ký 7,82 tỷ USD, đứng thứ 9/101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Đến nay, Trung Quốc đã cho ta vay 1,6 tỷ USD tập trung vào những lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, đường sắt, năng lượng, dệt may, hoá chất… Ngoài tín dụng, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; giao lưu thanh thiếu niên; đầu tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam; xây dựng khu nhà ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Lãnh đạo cấp cao hai nước đã dành nhiều thời gian trao đổi các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu duy trì đà tăng trưởng kim ngạch song phương đi đôi với cải thiện cán cân thương mại. Hai bên đã ký “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung giai đoạn 2012 - 2016” dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc (10/2011), ký Bản ghi nhớ Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm kèm Quy hoạch vào dịp Phiên họp lần 6 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc (4/2013). Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường, hai bên đã nhất trí thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại với trọng tâm là hợp tác xây dựng một số dự án tiêu biểu có quy mô lớn về cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông; tiếp tục áp dụng các biện pháp đảm bảo thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển cân bằng, lành mạnh, hoàn thành trước thời hạn mục tiêu kim ngạch thương mại đạt 60 tỷ USD năm 2015, đặt mục tiêu 100 tỷ USD năm 2017; tăng cường phối hợp và hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, nhất là hợp tác trong việc phòng ngừa tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế, giữ vững an ninh tiền tệ ở mỗi nước. Để thực hiện các nhiệm vụ này, hai bên nhất trí thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ.
III. Quan hệ hợp tác giáo dục, văn hoá, thể thao và du lịch
Trong những năm qua, quan hệ trao đổi, hợp tác giữa ta với Trung Quốc trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá, thể thao được đẩy mạnh.
Hàng năm, Trung Quốc cung cấp 130 học bổng dài hạn và 10 học bổng thực tập sinh ngắn hạn cho Việt Nam. Hiện có hơn 13500 lưu học sinh Việt Nam đang học tại các trường đại học của Trung Quốc với những ngành nghề đa dạng4 và có khoảng trên 3500 học sinh Trung Quốc đang du học tại Việt Nam, chủ yếu tập trung vào các ngành ngôn ngữ (học tiếng Việt), du lịch và kinh doanh.
Về văn hóa, thể thao: Hai bên đang tích cực triển khai “Kế hoạch thực hiện Hiệp định văn hóa Việt - Trung giai đoạn 2013 - 2015” (ký dịp Phiên họp 6 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt - Trung); tích cực thúc đẩy việc thành lập Trung tâm văn hóa của nước này tại nước kia; tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn nhân lực…. Hàng năm, hai bên trao đổi nhiều đoàn biểu diễn nghệ thuật, tổ chức nhiều cuộc giao lưu văn hoá, thể thao, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Hai bên cũng đã triển khai thực hiện hiệu quả “Thoả thuận về hợp tác Thể dục thể thao”, Trung Quốc giúp ta trong việc huấn luyện và đào tạo vận động viên tài năng cho những đấu trường lớn.
Về hợp tác du lịch: Trung Quốc là thị trường nguồn du lịch lớn của Việt Nam. Năm 2013, ta đón 1,9 triệu lượt khách Trung Quốc, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm 2012. Những năm gần đây, hàng năm có khoảng 1 triệu du khách Việt Nam thăm Trung Quốc. Hai bên cũng mở thêm nhiều tuyến bay (thuê bao) chủ yếu từ Thâm Quyến, Trùng Khánh, Thượng Hải, Hàng Châu đi Đà Nẵng...
IV. Về biên giới lãnh thổ
Sau khi bình thường hoá quan hệ, năm 1993, hai bên đã ký Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ. Hai bên cũng đã tiến hành đàm phán về 3 vấn đề: biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên biển (Biển Đông).
Đến nay, hai bên đã ký Hiệp định về biên giới trên đất liền (1999); Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (2000); Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ
- Về biên giới trên bộ: Ngày 31/12/2008, hai bên đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc đúng thời hạn Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận. Hai bên đã công bố Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu có hiệu lực từ 14/7/2010. Hai bên đang tiến hành đàm phán để sớm ký Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định về hợp tác và khai thác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc.
- Về Vịnh Bắc Bộ: hai Hiệp định về Vịnh Bắc Bộ (Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ) được triển khai tương đối thuận lợi, công tác quản lý đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi dần đi vào nề nếp, hạn chế tối đa các xung đột có thể nảy sinh. Hai bên thỏa thuận tiếp tục thực hiện tốt hai Hiệp định này, cũng như thực hiện tốt công tác kiểm tra liên hợp, điều tra liên hợp nguồn thủy sản trong Vùng đánh cá chung và tuần tra chung giữa hải quân hai nước ở Vịnh Bắc Bộ, đẩy nhanh việc thực hiện “Thỏa thuận khung về hợp tác dầu khí trong vùng thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ”.
- Về vấn đề biển Đông: Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần trao đổi về vấn đề Biển Đông. Năm 2011, hai bên đã ký kết Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc, góp phần định hướng cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo đó, hai bên cần kiên trì giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 và tinh thần DOC. Trên cơ sở Thỏa thuận, hai bên đã thành lập cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và cơ chế đàm phán cấp chuyên viên về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Đến nay, sau 5 vòng đàm phán về khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và 5 vòng đàm phán về hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, hai bên đã đạt được một số kết quả ban đầu: nhất trí thành lập Tổ chuyên gia kỹ thuật khảo sát chung phục vụ công tác phân định và hợp tác cùng phát triển tại khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; nhất trí chọn ra 3 dự án trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển để ưu tiên nghiên cứu và triển khai thí điểm trước, gồm: Dự án về hợp tác trao đổi, nghiên cứu về quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, và Dự án về nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang, và Dự án về phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lý Khắc Cường, hai bên nhất trí thành lập Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về Biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc, nhằm cụ thể hóa thêm một bước nhận thức chung quan trọng, thể hiện trong các Tuyên bố chung giữa hai nước trong những năm qua về việc “nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển”.
Trong khuôn khổ đa phương, ASEAN (trong đó có Việt Nam) và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC và Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc kỷ niệm 10 năm ký kết DOC. ASEAN hiện đã sẵn sàng và đang tích cực thúc đẩy đàm phán với phía Trung Quốc về việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Đầu tháng 9/2013, ASEAN - Trung Quốc lần đầu tiên tham vấn chính thức ở cấp SOM về COC.
Tuy nhiên, vấn đề Biển Đông tiếp tục là trở ngại lớn nhất trong quan hệ hai nước với những diễn biến phức tạp khi những năm gần đây Trung Quốc liên tục triển khai một loạt các hoạt động phi pháp và gây hấn trên Biển Đông như cắt cáp tàu thăm dò của Việt Nam (2011), thành lập “thành phố Tam Sa” (6/2012), mời thầu quốc tế 09 lô dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam (2012) và đặc biệt là đưa giàn khoan nước sâu Dầu khí Hải dương 981 vào hoạt động trái phép trong vùng biển Việt Nam (5/2014).
__________________________________________________________________________
1Trao đổi về chương trình thăm cấp cao giữa hai nước trong năm 2013; Ký 3 văn kiện hợp tác: Biên bản cuộc họp, Danh mục các dự án hợp tác trọng điểm trong Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế - thương mại Việt - Trung, Kế hoạch thực hiện Hiệp định hợp tác văn hóa giai đoạn 2013-2015…
2Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (6/2013)
3Có sự chênh lệch là do: cách tính của hai bên khác nhau (ta tính giá FOB, Trung Quốc tính giá CIF); khác nhau cách hiểu về điểm đến cuối cùng (nếu hàng dừng ở Hồng Công, ta tính là Hồng Công, nhưng nếu sau đó lại chuyển vào Trung Quốc thì Bạn tính là nhập vào Trung Quốc trong khi ta chỉ tính là nhập vào Hồng Công).
4Số liệu thống kê của Bộ Giáo dục cho năm học 2013.
(Cập nhật đến tháng 6/2014)

